Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2017

Ký ức phía sau cổng làng |

(Xây dựng) - Như bao miền quê khác của vùng đồng bằng Bắc bộ, cổng làng tôi nằm êm ả bên dòng sông Đáy thơ mộng, nó là kiến trúc rất dị mang chiều sâu văn hóa của làng quê. Phía sau chiếc cổng làng còn lặng đậm ký ức của những người con đi xa, để mỗi khi ta nhớ về không khỏi bổi hổi với nhì tiếng “quê hương”. Bởi nhiều khi chúng ta biết sống và kính yêu cũng nhờ vào nhị trong khoảng “hoài niệm” ấy.

Kiến trúc cổng làng tôi không quá cầu kỳ, chiếc cổng có hình mái vòm được xây bằng gạch nung già cùng những hình vẽ tường tận tinh xảo của bác bỏ thợ cả khéo tay thủa ấy. Cạnh cổng được trồng một cây đa, theo thời gian cây đa mọc rễ lan nhanh bám vào thành cổng, phủ bóng mát ôm trọn lấy mái vòm cũ kỹ. Nó được xây lên như để phân biệt được rõ thôn Đoài với thôn Đông. Bước tham gia cổng làng, là bước tham gia một môi trường thuần việt với những ngõ ngóc ngoằn ngèo như hình chiếc xương cá nằm úp cùng những nếp nhà mái gói, trước sân nhà là những hàng cau thẳng đứng. Bên trong làng còn có đình làng nằm uy nghi bên cây đa, bến nước, nơi chứng kiến nhân thức bao câu chuyện vui bi thiết, những câu chuyện của cuộc sống làng phố ấy đã trở thành hoài niệm trong một công đoạn sống dài của mỗi người con của làng.

Đi xa quê, mỗi khi đi về, bước tới cổng làng, tôi thường lắng chính mình tĩnh lại hít một hơi thật dài, như để trút đi những bon chen của thị trấn thị ồn ào. Tôi lần tậu ký ức tuổi thơ của bản thân trên bức tường loang lổ, trên những rễ đa bám vào thành cổng. Tuổi thơ tôi là những ngày cuối năm gió mùa đông bắc thổi hun hút trên cánh đồng chiều khô nẻ, sương đang giăng bận rộn càng ngày càng đặc lại làm đoạn đường dẫn về lối cổng làng như co lại, bé bỏng mịt mùng. Tôi dắt tay đứa em kế, bế đứa em út đang đói lả lếch thếch đi bộ ra cổng làng đứng chờ mẹ đi dạy học xa chưa về.

Để dỗ các em nín khóc tôi đã bày trò chơi bứt lá đa xếp hình mặt trăng chú cuội, do trèo lên thành cổng bứt lá rồi nhìn thấy một tổ chim, tôi cứ chíu chít với đồng minh chim non mà để em út tôi đã ăn một bụng lá đa vì đói quá. Em tôi lả đi, tôi vội bế em vào quán chưng Sỉu cầu cứu, bác móc họng cho em tôi nôn ra hết rồi chưng pha cho mỗi chị em một cốc sữa đặc hot. Chưa bao giờ tôi từng được uống thứ gì ngon như cốc sữa hôm ấy. Vừa uống tôi vừa khóc tấm tứt, tới nỗi chưng Sỉu phải mắng “Tông môn nhà bay, uống đi khóc gì, con gái mà nhiều xúc cảm thế nay mai rồi khổ con ạ”.

Cổng làng cũng là nơi mẹ tôi đứng tần ngần tiễn bố đi dịch vụ đất nước trong những ngày đao binh. Nơi bà tôi cứ chiều tới lại ra ngồi trên gờ cổng nơi có rễ cây đa to trồi lên chờ bố tôi trở về. Tuyệt vọng, bà lê bước về trong khói bếp lam chiều đang loãng dần vào ban đêm.

Cổng làng cũng là nơi chứng kiến tôi lớn lên và ra đi rồi lại đi về để tìm nơi trú ẩn cho tâm hồn trên những nhánh cong nhánh nhỏ nhắn của cây đa cũ kĩ thụ. Khi nào cũng thế, bước qua cổng làng tôi sẽ rẽ tham gia quán bác bỏ Sỉu, bác đón tôi như đón cô con gái nhỏ nhắn có tâm hồn mãi bận rộn kẹt lại nơi này đi về. Bác sẽ lại pha cho tôi một cốc sữa đặc hot rồi nhìn tôi rầy la “Tông môn nhà bay, sao bay nhớ dai quá”. Bác hiện thời đã già lắm rồi, trên mặt chưng chồng chéo những nếp nhăn tựa như những đoạn gấp khúc của năm tháng cũ mòn được xếp lại. Chưng kể, anh đàn ông cả nhà bác hiện nay khiến to ngoài thị thị trấn, giục bác bỏ ra ở cùng để luôn thể bề chăm sóc lúc đau bé nhỏ tuổi già, nhưng chưng nhất quyết không đi vì bác hiện ra và lớn lên kế bên chiếc cổng làng, nó như một phần máu làm thịt trong bác làm cho sao xa cho được. Khi ấy tôi ấp ôm bác bỏ, cúi xuống dụi dụi vào bộ ngực bé dại guộc của bác bỏ mà cười “Đấy, bác cũng nhớ dai như con nhé”.

Dạo mới đây, bác bỏ Sỉu thường hay nhìn chiếc cổng làng rồi buông tiếng thở dài nặng trĩu. Chiếc cổng làng tôi bây giờ không còn như trước, nó được người ta xây một cái miếu và quây những tấm tôn sắt màu xanh dương quành năm nhang khói nghi chết giấc. Chiếc cổng làng trở nên biến dạng một cách thức kỳ quặc. Cùng với hơi thở của cuộc sống văn minh, làng quê càng ngày càng chuyển chính mình, thì việc bảo tồn, giữ giàng những di sản của làng, phố là một việc khiến hợp lý, nhưng công việc ấy cần được giao cho những nhà chuyên ngành và người có đủ sự tao nhã về mặt thẩm mỹ, để chiếc cổng làng được bảo tàng nguyên trạng như vốn có. Bởi cổng làng là đại diện cho sự chỉn chu, nằn nì nếp, chuẩn mực của dân làng.

Ở mỗi làng quê, cổng làng là kết tinh văn hóa, là cái hồn mang đậm chất thi vị, và cả sự khôn thiêng của dân làng. Trải qua bao năm 04 tuần bom rơi đạn lạc, người dân đã có lúc phải bỏ làng bỏ xóm đi giảm thiểu nạn, chiếc cổng làng cùng cây đa cổ lỗ vẫn ngày đêm lừng lững bám rễ nơi đất mẹ để đợi những người con trở về và nó cũng bám rễ trong tâm hồn mỗi người con xa quê.

Hạ Ly


Đọc thêm: tin tổng hợp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét