Thứ Hai, 6 tháng 2, 2017

Cải tạo và xây mới các nhà cửa tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam |

Bàn về yếu tố làm mới và xây mới các nhà cửa tín ngưỡng tôn giáo tại vn thời điểm qua, phóng viên đã phỏng vấn Kiến trúc sư, Hòa thượng Danh Lung, Ủy viên Túc trực Hội đồng Trị sự, Phó Văn phòng 2 Trung ương Giáo hội Phật giáo vn, trụ trì chùa Candaransi, 164/235 È Quốc Thảo, xã 7, huyện 3, TP.HCM dưới góc nhìn của một vị trụ trì chùa, đồng thời cũng là tác giả của những tu tạo kiến trúc cổ của ngôi chùa Khmer nổi tiếng này tại TP.HCM.


Hòa thượng Danh Lung.

PV: Xin ông cho nhân thức sự khác biệt giữa chùa Việt và chùa Khmer cũng như đời sống văn hóa linh tính giữa các vùng?

Hòa thượng Danh Lung: Người vietnam nói thông thường, tộc người Kinh nói riêng, ngoài tôn giáo dân dã bạn dạng địa thì cũng du nhập văn hóa Phật giáo, Đạo nho, Khổng giáo… Chùa Việt là một trong những tượng trưng nơi tụ họp và lan tỏa các nhân tố, các dòng văn hóa đó. Ngoài ra đó, chùa còn chịu ảnh hưởng tùy theo các phân khúc trong thị trấn hội tham gia sinh hoạt như là vua, triều đình mà đóng vai trò quan trọng hơn cả là các hoàng hậu. Có những ngôi chùa kiêm hành cung như chùa Phật Tích. Cũng có chùa của đồng đội thôn trang như chùa Thầy, chùa Hoàng Kim (Hoàng Xá, Quốc Oai). Kiến trúc chùa Việt (chùa tộc người Kinh) còn mang những đặc biệt theo từng công đoạn lịch sử, luôn thừa hưởng và tạo ra, luôn mở mang để đáp ứng ý định sinh hoạt.


Không gian chùa Thiên Trù, Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Nội.

Trong khoảng thế kỷ XVII đi về trước, kiến trúc chùa thường bố cục theo chữ Nhất, sau này chuyển sang chữ Công, có thêm nhà Tổ, nhị dãy hành lang xuất hiện mặt bằng kiểu “nội công láng giêng”. Hay tới thời Lê Trung Hưng hiện ra kiến trúc chùa trăm cột, chùa kiểu “tiền Phật hậu Thánh”, mà trước kia thường chỉ có một gian nhị chái, với 4 cột cái và 12 cột quân. Tùy theo vùng miền, hoặc có nơi “tiền Phật, hậu Mẫu” hay “tiền Phật, hậu Tổ”.

Đến thế kỷ XVIII chùa Việt mở màn có 3 lớp nhà kiểu chữ Tam như chùa Kim Kiên, Hà Nội, giữa tòa nhà thường để lại một khoảng trống lấy ánh sáng, đều hòa không khí, mái chùa cũng được đẩy lên cao hơn những công đoạn trước. Chùa Việt thường chọn lựa vị trí đẹp: khuông núi, đỉnh núi, ven các con sông giao thông. Về trang hoàng như Kinnara (1) (Thích đế hườn nhơn) dâng hoa, nhạc sĩ thiên thần cưỡi phượng, vân mây leo tay mướng và sóng, hay hình ảnh thủy quái Makara (2) được rồng hóa trên đầu bẩy (chùa Bối Khê, Hà Tây). Nhìn chung, mỹ thuật trang trí, chạm khắc, các họa tiết đạt trình độ cao, tinh tế, mang dấu ấn của từng thời đại, truyền chuyên chở được thông điệp của Đức Phật, kết hợp phối hợp với bản sắc văn hóa Việt.


Không gian sân chùa Candaransi, TP.HCM.

Đối với chùa Khmer, tuy cùng đạo Phật, nhưng có những đặc điểm khác nhau so với chùa Việt. Người Khmer trước khi đến với đạo Phật, họ có tôn giáo dân dã, có văn hóa phiên bản địa, kế tiếp họ đón nhận văn hóa Bà La Môn giáo và sau đó đến Phật giáo. Cũng có những lúc người Khmer theo Phật giáo hệ Má-ha-da-na, nhưng Phật giáo Thê-rá-va-đa (Nguyên Thủy hay Nam Tông) là chính. Tuy Phật giáo đến muộn nhưng ý thức nhập thế đã có sức thú vị và chi phối mạnh mẽ nhất trong đời sống văn hóa linh tính người Khmer Nam bộ, những tín ngưỡng dân gian và Bà La Môn giáo tuy còn trong đời sống người Khmer nhưng không tạo ra mạnh.

Tượng sư tử, chùa Candaransi, TP.HCM.

Bàn thờ Phạm Thiên, chùa Candaransi, TP.HCM.

Tượng Bồ tát Di lạc.

Vùng đất Nam bộ, nơi có phổ quát giồng, phổ thông sông suối, kênh rạch, sơn thủy hữu tình, rừng tự nhiên ngút ngàn và có phổ thông thú dữ, cũng là yếu tố kiện dễ dãi sáng tác kiến trúc. Vì vậy, khi xây chùa, người Khmer hòa hợp phối hợp văn hóa với thiên thiên, xem chùa là trung tâm tâm hồn của dân tộc, là nơi ngự của các vị thiêng liêng hộ trì dân chúng. Trong khoảng đó, chùa Khmer thường đặt ở trọng điểm phum - sróc trên nền cao có sẵn hoặc bồi đắp, hay ven các con sông, hoặc theo kiểu nhà sàn. Ban sơ chùa có khoảng bí quyết xa dân cư, yên ổn tĩnh, tiện lợi trong tu tập, sau này do sản xuất dân số nên có nơi chùa sát với dân cư. Chùa Khmer phát xuất trong khoảng tiếng gốc là A-ra-má (tiếng Pali) nghĩa là nhà thờ, nơi có rộng rãi loài hoa, cây cối cổ hủ thụ, nơi đem đến sự an lạc cho chúng sanh, cho các phân khúc trong xã hội. Vì thế chùa Khmer không mang nặng phong cách cung đình, vua hay hoàng thất, quan quyền đơn lẻ. Bởi lẽ khi đến với Phật giáo, hầu hết dân chúng đều cung kính đức Phật, kính cẩn Tam Bảo, không biểu lộ sự phân biệt cá biệt nào trong kiến trúc chùa Khmer.

Mặt khác, chùa Khmer không chỉ có công dụng để phụng dưỡng, tu hành mà còn là nơi sinh hoạt và bảo tồn văn hóa lễ hội, là trọng điểm giáo dục, dạy nhân tố hay lẽ phải, dạy tiếng nói chữ viết, mua bán trải nghiệm, chuyển giao kỹ thuật công nghệ, tuyên tuyên giáo lý, pháp luật, và còn là nơi tập hợp trao truyền tình mến thương nhân loại, nuôi nấng người bất hạnh. Vì thế, chùa thường có không gian bát ngát, xây đắp theo qui định ngũ điểm, trung tâm là Chính Điện nơi thờ báo vật (Tam bảo). Các công trình còn lại: Tăng xá, Phước xá, khu vui chơi, thư viện, thiền trục đường, phòng trưng bày trưng bày vật phẩm, tháp cốt… thường sắp xếp bao bọc xung quanh, có khoảng phương pháp thông thoáng liên hiệp với hồ ao, cây xanh, vườn hoa, tạo sự thoáng mát, im tĩnh, khiến cho nhẹ nhàng tâm hồn cho những ai bước chân vào chùa. Mặt tiền Chánh điện luôn trở lại hướng đông, khác với chùa Việt thường quay về hướng trục trục đường chính. Bởi người Khmer ý kiến, đức Phật thành đạo tựa lưng vào cội Bồ Đề, quay mặt về hướng đông, và hướng đông cũng là hướng sinh sôi nảy nở, hướng mở đầu của một ngày mới.

Về nghệ thuật tạo dáng, trang hoàng, chùa Khmer đạt trình độ cao và tinh tế trong nghệ thuật tạo dáng, trang hoàng, nhân thức câu kết kết hợp giữa tự nhiên, muôn loài vạn vật với nhân loại, kết hợp cõi người, cõi trời và Niết Bàn, truyền vận tải được sâu sắc những thông điệp của đức Phật đến với công chúng.

Mỗi công trình có bí quyết tạo hình thân cận với công năng dùng, cụ thể như chánh điện trở lại hướng đông, 3 lớp mái chồng mái, mái trên vươn cao lên bầu trời, đã nói lên 3 cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới, cuối đỉnh mái nhị bên thường xong xuôi bằng Cho-via biểu trưng cho tính âm dương. Dưới Chô-Ve là hình tam giác cân, gọi là Hoo-Cheng (tai Tượng), mặt phẳng của tam giác cân được trang trí bằng hoa lá liên kết với Rahula, gắn với truyền thuyết của 3 anh em: Mặt Trăng, Mặt Trời và Rahula, hay cũng có những chùa đoàn kết hoa văn với Tam Tạng Kinh.

Ở giữa đỉnh mái trong khoảng thế kỷ XIX trở về trước không có tháp nhỏ dại, sau đó có ngọn tháp bé dại, có tượng bán thân thần Prăm-ma (Phạm Thiên 4 mặt Biểu tượng cho tứ vô lượng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả), và không gian chánh điện không cao cũng không rộng.

Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX quay về đây, chùa Khomer thường có một hay 3 ngọn tháp. Ngọn tháp thường dáng điệu 8 cấp nhỏ dần, biểu trưng cho Bát Chánh Đạo (đoạn đường chính) và hình bầu dục trên cùng là Niết Bàn. Chấm dứt mỗi lớp mái được bao bọc bởi hoa văn dáng điệu từ hoa lá thiên nhiên, từ dầy tới thưa theo từng bậc từ thấp tới cao, nói lên sự ràng buộc, bao trùm bởi Kế-lê-sá (sự bẩn thỉu, trụy lạc) được giảm đi, dịu dàng dần theo từng cõi. Diềm mái thường dáng điệu bằng thân rắn Na-ga, đầu vươn lên biểu thị sức mạnh bảo hộ Tam Bảo. Trên đỉnh cột xung quanh chánh điện luôn có tượng Kến-na-ra (Thích đế hườn nhơn), hay nhơn điểu Garuda, hoặc Ê-ra-oanh (tên con voi của Trời Đế Thích), để chóng đỡ mái, không chỉ thể hiện sức mạnh, mà còn biểu hiện sự gắn kết giữa cõi người với cõi trời, tạo sự cố gắng trong cuộc sống cũng như trong tu tập cho những người nào bước chân tham gia chùa. Các thân cột được trang trí đa dạng loài hoa văn tùy theo nhu cầu từng chùa, gắn kết giữa cột với nhau thường bằng các con phố cong, như mái vòm tượng trưng cho Bát Úp dáng điệu, hình ảnh đức Phật đã nhập diệt.

Điện chùa Khmer thường cấu tạo theo gian lẻ: rộng 3, dài 5 hoặc 7; hay rộng 5, dài 9, tùy theo ý định sinh hoạt. Không gian bên trong chánh điện luôn mênh mông, có độ cao, tạo sự thông thoáng, nữ tính khi bước chân tham gia. Trần chánh điện trang hoàng phổ thông loài hoa văn liên minh với bộ Tam Tạng Kinh hay tranh Bát Chánh Đạo, trên vách trang trí bằng sử tích đức Phật với hành trình hoằng dương chánh pháp, cứu độ chúng sanh, hay Túc Sanh Truyện, tạo Ba La Mật để đắc quả thành bậc chánh đẳng chánh giác. Phật đài thường chỉ thờ kim thân đức Phật Thích Ca, có một số chùa thờ chư vị môn đồ của Ngài và bây giờ cũng còn một vài ít chùa thờ tượng Pô-thi-sắt-tá (chư vị Bồ Tát). Chúng ta tham gia đây như được sống trong đất Phật, sống trong thời đức Phật còn tại thế, cứu độ chúng ta thoát khỏi u mê lầm lạc, tới với bờ giác ngộ, an lạc.

Chánh điện chùa Khmer thường đặt trên ba cấp nền, cấp nền ngoài cùng được bao bọc bằng tường rào, trang trí hoa văn tao nhã, rực rỡ. Mỗi cấp có bậc thang đi lên, trên thành bậc thang luôn được trang trí bởi rắn Na-ga dáng bộ với ba hay năm đầu quay ra ngoài, Biểu tượng cho duyên do bất thiện pháp 3 điều: tham, sân, say đắm hay Ngũ Uẩn, nhắc nhở chúng ta khi bước chân tham gia cần thúc liễm thân, khẩu, ý, cần thu thúc Ngũ Uẩn, không nên buôn lỏng, không dễ dàng thành tựu trong tu tập.

Người Khmer có câu, xin lâm thời dịch: “Một con rắn rộng rãi cái đầu, ra không hết, tham gia không hết, không phù hợp nhau; Một con rắn phổ thông cái đuôi tuy cản trở, có thể thuận nhau ra tham gia được”.

PV: Trong lĩnh vực làm mới, trùng tu chùa Việt hiện thời, theo ông, chúng ta chọn lựa lối đi nào để chuyển chuyên chở hồn cốt cho chùa Việt? Làm thế nào để giữ gìn những trị giá văn hóa của kiến trúc Phật giáo bây chừ?

Hòa thượng Danh Lung: Việc làm mới, trùng tu chùa Việt bây chừ nói tầm thường, và chùa mỗi tộc người nói riêng, ngoài việc gìn giữ những trị giá văn hóa truyền thống của kiến trúc chùa, theo nghĩ suy thô thiển của tư nhân tôi để tìm hiểu, chúng ta cần lựa chọn lối đi theo ý thức dân tộc của kỷ nghuyên, ý thức tân tiến, kết hợp với giáo dục và thân thiện (không gian và loài người). Chúng ta đang sống trong thời đại hòa bình, công bình phường hội, liên hiệp toàn dân tộc và ý định sinh hoạt tín ngưỡng tín ngưỡng, văn hóa lễ hội ngày càng cao của các phân khúc quần chúng. #. Ngoài ra đó, đạo đức phường hội đang đứng trước phổ biến chuyển đổi, kinh tế đang còn gian khổ, thì kiến trúc Phật giáo cần đóng góp hăng hái những ý thức đã nêu, và thông qua các cụ thể hoa văn, các hình ảnh trang hoàng, các nghệ thuật tạo hình cần truyền tải khỏe mạnh kim ngôn (lời dạy) của đức Phật, cũng như lời hay ý đẹp của dân tộc, phân thành hồn cốt chùa Việt, góp phần tô thêm vẻ đẹp cho thị trấn hội, nâng cao trị giá trong cuộc sống.

Văn hóa kiến trúc Phật giáo cũng như các văn hóa khác, có trị giá không chỉ về mặt tao nhã trong đường nét, hay màu sắc đặc sắc, giàu có hay nhiều chủng loại trong tạo dáng chỉ để thưởng lãm, mà văn hóa đó cần cất lên những tiếng nói của bản thân góp phần khiến cho đẹp tâm hồn cũng như mọi hành vi trong cuộc sống của nhân loại, và trị giá càng cao khi nó phát huy hết chức năng của nó. Như vậy, để giữ giàng những trị giá đó chúng ta cần thừa hưởng và tiếp biến chọn lựa lọc, thông minh cho phù hợp, chúng ta cần tầm thường đến quần chúng không chỉ để được ăn uống, mà còn để cùng nhau thấy rõ những trị giá phiên bản sắc dân tộc, từ đó có tinh thần nghĩa vụ gìn giữ và phát huy tốt nhất trong đời sống tâm linh của mỗi người trong phố hội.

PV: Câu chuyện “Bình mới, rượu cũ” trong cải tạo chùa bây giờ dưới góc nhìn của ông ra sao?

Hòa thượng Danh Lung: Trong trùng tu, cải tạo chùa hiện giờ, chuyện “Bình mới, rượu cũ” vẫn có phần đúng, vì một số công trình kiến trúc Phật giáo làm mới, chăm sóc chưa thật sự cất công bố nói trong nghệ thuật tạo hình cũng như truyền tải được thông điệp của đức Phật, góp phần làm cho đẹp cho thị trấn hội, và chưa bắt kịp nhu cầu sinh hoạt, chưa kết hợp tao nhã tính tân tiến trong kế thừa.

Theo tôi, một số nhà cửa kiến trúc chùa Phật giáo khi cải tạo, việc gìn giữ văn hóa truyền thống là quan trọng, nhưng cũng phải câu kết với tính tân tiến, thay đổi hay mở mang không gian, hòa hợp công năng dùng phục vụ yêu cầu sinh hoạt thiết thực, đẹp về nghệ thuật trang hoàng, tạo hình, đồng thời phải toát lên thông điệp đức Phật và tính dân tộc trong thời đại, nâng cao chất lượng công trình, hạn chế cải tạo không bao lâu lại tiếp diễn làm mới và nhu cầu ít cải tạo phổ quát, gây hoang toàng.

PV: Về chùa xây mới hiện thời, theo ông, chúng ta cần vồ cập tới những trắc trở gì? Liệu có thiên hướng nào để chọn lựa?

Hòa thượng Danh Lung: Chùa xây mới hiện thời, theo tư nhân tôi chưa phải là hoàn toàn đúng, chỉ mang tính tham khảo. Theo tôi, cần đon đả tới công năng dùng; công dụng của chùa trong thời đại và tính dân tộc, vùng miền, hệ phái Phật giáo trong thời đại. Trong khoảng đó, chúng ta chọn lựa ra khuynh hướng mới làm mới, xây mới các nhà cửa kiến trúc Phật giáo mang thông điệp của đức Phật câu kết với tính dân tộc, trong thời đại, thân cận với tập thể, gắn bó với thiên nhiên, tạo nên kiến trúc xanh, thân thiện với môi trường.

PV: Trân trọng cảm ơn Hòa thượng!

Chú giải:

1): Trong thần thoại Phật giáo và Hindu, Kinnara (Khẩn Na La) là một một nửa thủy chung, một nhạc thần; có hình dáng nửa người nửa ngựa (Ấn Độ) hay nửa người nửa chim (các nước Đông Nam Á).

(2): Makara là một con quái vật biển trong các tranh tượng Hindu giáo, nảy sinh trong khoảng loại cá heo sông Hằng, nhưng hình tướng thông thường có phổ thông đặc điểm giống con cá sấu. Nó thường được diễn tả có hình dáng nửa động vật trên cạn với phần trước là đầu voi, cá sấu, bò đực hoặc hươu/nai và phần thân mềm mỏng của động vật dưới nước với đuôi cá, hải cẩu và trong vài trường phù hợp nó có chiếc đuôi dáng điệu hoa mỹ giống đuôi công.

Theo Hoài Thái - Huy Phượng/TCKTVN


Có thể bạn quan tâm: máy bơm dân dụng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét