Thứ Sáu, 17 tháng 3, 2017

Nhìn lại lý luận và phê bình kiến trúc những năm mới đây |

Để đánh giá tình hình lý luận và phê bình kiến trúc hiện nay, cần thiết nhấn mạnh những cảnh báo sau: thiên nhiên và môi trường sinh thái - nhân bản bị xâm hại tới mức gào thét; dung mạo và đơn côi tự kiến trúc của các thành phố và thôn xóm cũ đang bị vỡ.

Dường như đó, dung mạo của các cấu trúc thị trấn và cư dân mới thì nhôm nhoam và cô động hình. Nơi nơi ngự trị áp đảo một nền kiến trúc đậm tính nghịch lý, nhìn vào hôm nay và mai sau thì ít, nhìn tham gia quá khứ không có cỗi nguồn rõ ràng thì phổ quát. Một thứ chủ nghĩa cơ chế với những hình hài xa lạ và khó bề giải nghĩa đang phồn thịnh, gây muôn ngàn phao phí công quỹ, dẫn đến sự băng hoại thẩm mỹ và bản sắc, đặt nền kiến trúc của chúng ta đứng ngoài dòng của nhân loại tiên tiến.


Kiến trúc “mới” xen cấy vào không gian đô thị cũ rích Sapa.

Nền kiến trúc non sông đang ở đâu? Đang đi đến đâu?

Câu giải đáp phải chờ ở thực tế ư? Bức tranh và vở kịch còn sửa được hoặc bỏ đó. Công trình kiến trúc, hỏng là hỏng hẳn. Hệ lụy của kiến trúc khôn lường!

Câu trả lời ở các cơ quan điều hành Nhà nước về xây dựng ư! Ở cộng đồng xã hội ư!

Ở giới kiến trúc ư!

Câu tư vấn chính là ở LÝ LUẬN, ở PHÊ BÌNH kiến trúc”.

Có thể nói, lý luận kiến trúc bây chừ vừa thiếu căn bản, vừa không theo kịp thực tại phát hành kiến trúc. Còn phê bình theo đúng khái niệm đối với văn chương và nghệ thuật mới chỉ đang hiện ra.

Về lý luận, chúng tôi đưa ra đánh giá có phần đi thẳng vào thực chất và thực trạng: Nền lý luận kiến trúc ở ta về cơ bản mới chỉ là sự cố gắng khiến chủ những kiến thức kiến trúc của nhân loại, gần như chưa có những tích trữ đáng kể nào khác trong khoảng phía kiến trúc sư vietnam.

Lý giải phản hồi trên là ở sự non trẻ của nền kiến trúc vietnam tiên tiến, có độ tuổi trên dưới 100 năm, từ khi xảy ra sự tách lìa kiến trúc Việt cổ truyền đi tham gia quá khứ tham gia phần cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, khi kiến trúc quốc tế hóa biến thành chính yếu.

Từ những năm 20 thế kỷ trước người Pháp bắt đầu huấn luyện những người vietnam chuyên vẽ nhà. Vài chục người chuyên làm nghề kiến trúc ấy mới chỉ vẽ biệt thự theo kiểu Tây thì trận chiến tranh Pháp-Việt nổ ra. Nền kiến trúc tân thời do người Việt khởi xướng chỉ mới khởi đầu trong khoảng những năm 30 - 40 thế kỷ trước. Kiến trúc chẳng thể nhập khẩu và tiến triển với tốc độ cao như các bộ môn văn chương và nghệ thuật khác, không thể thực hiện được những cực điểm chói sáng như văn xuôi, thi ca, âm nhạc, sân khấu, hội họa… Không thể hiện ra mầm mống lý luận - phê bình gần giống phê bình văn chương thành lập đầu những năm 40.

Lần giở lại những văn kiện, những bài viết của những thập niên nửa sau thế kỷ XX, hầu khư không sắm thấy dấu ấn lý luận kiến trúc theo đúng nghĩa của nó. Một giá trị đáng được ghi kiếm được là các kiến trúc sư bậc tiền bối như Hoàng Như Tiếp, Nguyễn Cao Luyện, Tạ Mỹ Duật, Ngô Huy Quỳnh… đã trăn trở suy ngẫm về bản chất kiến trúc truyền thống Việt, sự quan trọng phải thừa hưởng.

Ngót hai thập kỷ qua chúng ta đã bước tham gia cuộc xây dựng bùng nổ. Và càng thi công, càng toan lo về kiến trúc, chúng ta càng nhận ra sự thiếu khuyết, những khoảng trống, sự lẫm chẫm kéo dài, mà chỉ có một nền móng tri thức nền tảng mới có tài năng bù đắp được, chống đỡ được.

Tình hình tạo ra lý luận kiến trúc hiện nay có thể được bình chọn bằng 3 cụm trong khoảng: Sự nghiệp dư, sự thiếu tính cơ bản hàn lâm và thiếu độ cập nhật thị trấn hội.
Xin đi thẳng vào việc tìm nguồn gốc:

- Trong đào tạo kiến trúc sư, cũng như trong huấn luyện những ngành nghề khác, chúng ta chưa trang bị cho sinh viên vốn liếng kiến thức và văn hóa mang tính toàn cục và cơ bản; cơ chế luận khoa học.

Bởi vậy, trí thức trẻ thường tác nghiệp với những khả năng học được ít phổ biến trong trường, để ý tham gia kiếm kế sinh nhai, mà chẳng hề và không đủ sức nâng tầm nhìn lên trong kiếm được thức, nâng tầm cho sáng tác của bản thân mình.

- Chúng ta có thể trông đợi những tìm hiểu, những công trình lý luận kiến trúc, có độ soi rọi sâu về chuyên môn và ít nhiều mang tính hàn lâm ở 3 đối tượng sau: Các tập đoàn phân tích chuyên ngành nghề và các trường đại học; các nhà phân tích lý luận và ở các người khiến luận án tiến sỹ.

Trong ngành nghề kiến trúc có hẳn một viện chuyên nghiên cứu kiến trúc trực thuộc Bộ Xây dựng và phổ biến viện, nhiều trung tâm có bổn phận tìm hiểu lý luận kiến trúc, song hiệu quả nghiên cứu khôn cùng hạn chế, do nhóm những người có tài năng nghiên cứu lý luận đếm trên đầu ngón tay; các hướng và đề tài nghiên cứu chưa được phối thích hợp và mục tiêu hóa; sự phối thích hợp trong phân tích giữa các doanh nghiệp hầu như thường có; chất lượng khoa học thấp; các tòa tháp tìm hiểu tốn kém đa dạng tiền, nghiệm thu chấm dứt là xếp tham gia tủ; tính chất hàn lâm, hoàn toàn xa vời. Hơn thế nữa, các tổ chức sinh ra cốt để làm cho khoa học này lại làm cho kinh tế là chính.
Ở các cơ sở vật chất đào tạo kiến trúc sư, bộ môn lý luận gần đây đã hình thành, song lý luận hầu như dừng lại ở mức giáo huấn những tri thức nhập môn. Rất thiếu thầy dạy lý luận có độ chuyên môn hóa tương ứng.

Trong thực tiễn, do cách đào tạo và khác lạ cách dùng đứa ở ta bấy lâu, khác lạ do hiện tượng “cán bộ hóa” những nhà chuyên ngành, mà những kiến trúc sư ít đa dạng có thu thập không trở thành những nhà lý luận. Nhân tố này lại càng đáng khiếp sợ hơn, khi nền sáng tác kiến trúc trên hạ tầng hành nghề hiện nay hầu như chơi sản hiện ra các tác gia, các tuấn kiệt có tên tuổi, các môn phái. Bên cạnh đó chính lý luận góp phần tạo nên và nhìn thấy các anh tài kiến trúc, cũng như các ngành khác.
Trong các luận án tiến sỹ kiến trúc, ít gặp mặt những nghiên cứu mang tính lý luận. Giả dụ lý luận được đề cập thì chỉ ở dạng tổng quan hoặc lặp lại những điều mà người khác đã viết. Ở đây kiếm được rõ các nghiên cứu sinh yếu kém về lý lẽ luận nghiên cứu công nghệ, yếu kém trong tư duy kỹ thuật. Nhà công nghệ mà không làm cho chủ được những thứ ấy, chỉ là tiến sỹ có bằng mà thôi.

- Trong phát hành lý luận kiến trúc, trông thấy một mảng yếu kém nữa, đó là sự chuyển chuyển vận những quan niệm, những chủ trương đường lối của Đảng ở tầm vĩ mô tham gia cục diện cụ thể của lý luận kiến trúc và từ đó định hướng sản xuất kiến trúc. ví dụ, Đảng đưa ra quan niệm chi phối về tính hiện đại và tính dân tộc (phiên bản sắc dân tộc), song tư tưởng lớn tưởng này chưa được giới nghiên cứu kiến trúc tiêu hóa nhuần nhuyễn để chuyển vận chuyển tới người sáng tác, chưa biến thành một yếu tố được khắc phục ở tầm lý luận. Đến nay một đề tài cấp Nhà nước về bản sắc dân tộc trong kiến trúc do một công ty đầu ngành nghề của Bộ Xây đắp được chấp hành cũng chưa thể đưa ra được khái niệm chính xác bản sắc nói thông thường và phiên bản sắc trong kiến trúc nói riêng.

Một góc cạnh khác cần thân mật: Lý luận kiến trúc, dựa vào đường lối được Đảng vạch ra trong Quyết nghị Đại hội IX, phải đặc biệt ân cần tới cục diện thị trấn hội, vai trò của kiến trúc và kiến trúc sư đối với phố hội. Hơn bao giờ hết chúng ta cần đề cao trách nhiệm xã hội, tư tưởng xã hội của kiến trúc sư. chậm tiến độ có thể là cái cốt lõi chính trị - tư tưởng của lý luận kiến trúc. Dường như đó, yếu tố phường hội, yếu tố thời đại và ý thức công dân của kiến trúc sư chưa được đề cập ở chừng cần thiết ở các công trình mang tính lý luận.

Hình như việc sản xuất nền lý luận kiến trúc trong khoảng thực tế xây dựng nội địa, chúng ta có những kỹ năng dồi dào để thú vị và tiêu hóa các vốn liếng kiến thức vĩ đại mà trái đất đã thu thập được cho đến nay. Có 2 con đường để tiếp nhận quỹ tri thức hàn lâm ấy. ngừng thi côngĐây là chuyển tải trực tiếp trong khoảng các sách và báo từ tiếng nước ngoài. Song, trong giới kiến trúc, rất ít khách hàng nào thông đạt tiếng Anh, tiếng Pháp và ngay cả tiếng Nga. Cho nên họ phải đọc qua bạn dạng dịch, song bản dịch chấp hành bởi người thành thạo ngoại ngữ, chứ không thành thạo kiến trúc. Chưa nói đến việc các khái niệm và thuật ngữ bị hiểu méo mó. Có phương pháp chuyển chuyển vận lý luận thứ 2, đó là qua những sách và tài liệu soạn, tổng thích hợp hoặc thậm chí được tác giả hóa. Song ở đây xảy ra sự rơi vãi tri thức, độ chính xác không dễ dàng bề đảm bảo. Vô hình chung chúng ta đang sử dụng một khối tri thức ngoại nhập có phần chưa được Việt Nam hóa, chưa được chuyển tải đến những bản thể sáng tạo ở dạng dễ tiêu hóa. Từ đó, kiến trúc và có thể các bộ môn nghệ thuật khác, cứ tạo ra theo lối tự biên tự dễn.

- Sau cùng, cũng như ở mọi lĩnh vực khoa học và mọi hoạt động thực tế khác, trong lý luận kiến trúc bây chừ rất thiếu tính chuyên nghiệp. Tính giỏi chỉ có thể đạt được, khi nhà nghiên cứu biến thành chuyên nghiệp, khi mà phân tích sử dụng các công cụ phân tích chuyên môn hóa, khi mà nhà nghiên cứu nói bằng thứ tiếng nói của nhà chuyên ngành. Trong khoảng giỏi hoá phân tích ta tiến đến một nền lý luận kiến trúc hàn lâm hoá. Không chuyên nghiệp, không hàn lâm thì không thể xây đắp được một nền tri thức, một nền nghệ thuật thực thụ tinh hoa, thực sự ngang tầm kỷ nghuyên.

Phê bình, đặc trưng về bình diện học thuật hàn lâm và về bình diện tổng thể hoá những cục diện can hệ của thời đại, đặt kiến trúc vào hàng ngũ những bộ môn nghệ thuật chính yếu. Phê bình kiến trúc, nói một bí quyết thô thiển, là cái công cụ khứu giác và thị giác của lý luận.

Trong kiến trúc, phê bình được nắm bắt như sự suy đoán, sự bình phẩm, sự đánh giá và sự cắt nghĩa một tác phẩm.

“Phán đoán” là do tác phẩm là sự hiện thân của những ý nghĩ đó cá nhân, của sự setup những ẩn ý mang tính lối suy nghĩ, vì thế nhà phê bình phải làm cho cái việc giải mã, để bắc cầu trong khoảng thành quả đến người thụ hưởng nó.

“Bình phẩm” chứa đựng các yếu tố tiếp xúc, hấp thu và thụ cảm của nhà phê bình nhằm chuyển giao, chuyển vận tải một cách thức khách quan hoá nội hàm của công trình đến người thụ hưởng nó.

“Bình chọn” là nội dung rất chủ đạo của phê bình, nhằm xác định trị giá, chức năng và vị trí của một tác phẩm, với việc sử dụng dụng cụ quan trọng hàng đầu trong mọi phân tích, đó là dụng cụ phân tách.

“Cắt nghĩa” là một phần việc và một dạng thức thông thường của phê bình, khi nhà phê bình kiếm được vào chính mình bổn phận giảng nghĩa hoặc khiến cho rõ thêm ý nghĩ đó và nội hàm của một tác phẩm, mà không tránh né trong việc ấy sự bình phẩm hoặc bình chọn.
Phê bình chỉ đạt các mục đích của nó khi ta vận dụng thích hợp và thạo nghệ thuật suy đoán, bình phẩm, đánh giá và giảng nghĩa.

Về bản chất, với những đặc biệt nêu trên, đặc biệt với tư cách là một dạng thức và một bộ phận của dư luận phường hội, phê bình có thể được coi là một dạng hình thức lập pháp về lý thuyết cho sáng tác kiến trúc. Cơ chế lập pháp này được tạo nên bởi sự hấp thụ tinh nhạy dư luận phường hội, các khuynh hướng của thời đại, sự ứng dụng các dụng cụ của nền phê bình nhiều năm kinh nghiệm hoá. Chẳng thể lên đường từ những phán quyết duy ý chí, mà tạo lập nên cách thức lập pháp đặc trưng này.

Các công ty quyền lực về xây dựng cũng như các chủ đầu tư thường e dè phê bình kiến trúc, không tạo các thời cơ để thúc đẩy phê bình, dùng phê bình như một trong những cơ sở vật chất khách quan, nhằm đưa ra những chính sách yếu tố tiết các tác phẩm và cả nền nghệ thuật kiến trúc nói bình thường.

Nằm trong địa hạt của văn học và nghệ thuật, kiến trúc cần tới phê bình như là một công cụ cân đo, tinh lọc và xúc tác. Phê bình kiến trúc về cơ bản như nhau với phê bình văn học - nghệ thuật. Nhưng sự khác lạ nằm ở tính đặc trưng của đối tượng lưu ý và ở những tiêu chí được chọn làm cho chỗ dựa cho phân tích.

Với kiến trúc, phê bình phụ thuộc những tiêu chí căn bản sau:

- Sự đáp ứng các đòi hỏi về công năng, trật tự hoạt động và tính chất của tòa tháp.
- Doanh nghiệp không gian, bố cục kiến trúc - cảnh quan và mối liên hệ với môi trường thị trấn, không gian tự nhiên.

- Hình tượng kiến trúc và sức miêu tả.

- Khuynh hướng tìm tòi, ngôn ngữ kiến trúc, đẳng cấp, các trị giá thẩm mỹ…

Sở dĩ chúng tôi không nhắc đến các mục tiêu công nghệ và công nghiệp bởi chúng là đối tượng giám định và kết luận của các đơn vị điều hành công nghệ hoặc chuyên gia, thực hiện việc bình chọn trên cơ sở vật chất những thông số, những quy phạm nhất định.
Thẩm định trong phê bình kiến trúc gần gũi với đánh giá các công trình văn chương và nghệ thuật, nơi đề cao tính khách quan, nơi Áp dụng nguyên tắc luận cứ hoá kế bên những cảm kiếm được tư nhân và sự quy kết cũng không dễ bề giảm thiểu khỏi tính cá nhân. Đây chính là cái không dễ dàng, cái dị biệt và cái tính tương đối của phê bình kiến trúc.

Sự nhầm lẫn giữa đánh giá và phê bình, giữa phê bình và đánh giá, nhất là trong yếu tố kiện ảnh hưởng của lực quán tính của nếp tư duy bao cấp – mệnh lệnh, là một trong những cỗi nguồn dẫn đến sự giảm giá trị của phê bình hoặc của đánh giá, dẫn đến những phản tác dụng. Cuối cùng, phê bình kiến trúc bởi đó mà dậm chân tại chỗ.

Trong phê bình kiến trúc, trong khoảng việc để ý một toà nhà, một đô thị, cho tới một thiên hướng, chỉ tiêu cần được chú ý khác lạ là hiệu quả xã hội, tính thời đại, tính tiên tiến. Chính ở đây biểu lộ ý kiến, tinh thần công dân rõ rệt nhất, ý thức và chỗ đứng chính trị của người khiến công tác phê bình kiến trúc.

Phê bình trước tiên dựa vào sự tích luỹ tri thức kiến trúc, sự tích luỹ của bạn dạng thân người phê bình trong hành nghề sáng tác và trong sự chiêm nghiệm thực tiễn, sự nắm vững các bài phiên bản trong khảo cứu.

Đánh giá chính là phần việc khác biệt hệ trọng trong phê bình kiên trúc, yên cầu ý thức trách nhiệm và tính khách quan cao nhất ở người thực hiện phê bình. Thủ túc ở sự đánh giá mà một công trình kiến trúc có thể được nhìn thấy một cách thức đúng mực, những giá trị và khác lạ những đề xướng mới có thể được xác định, hoặc ngược lại. Một thành quả bị nhìn kiếm được thiên lệch hoặc sai lệch, dẫn đến những sự ngộ kiếm được không những trong giới chuyên ngành. Chúng ta có đa dạng trải nghiệm về trường phù hợp thứ nhị này, gây biết bao phiền luỵ cho các nhà sáng tạo kiến trúc. Đài tưởng vọng nhân vật liệt sỹ ở vườn hoa Bắc Sơn, Thủ đô, là một Chẳng hạn. Có vẻ như tác giả của công trình rực rỡ này dần dà đã thu được sự “đại xá” trong dư luận của những người có quyền lực và của thị trấn hội.

Mỗi một công trình kiến trúc, hễ có giá trị thực sự, thường hàm chứa những nhân tố đi trước thời gian. Những nhân tố ấy hay biến thành đối tượng đả kích ngay lập tức. Trái lại, những công trình xem ra tốt “miễn chê”, thường lại bi quên khuấy với tốc độ cao. Âu, đó cũng là quy luật của mọi nghệ thuật!

Cho nên, phê bình kiến trúc phải khoa học, phải khách quan, phải nhiều năm kinh nghiệm, và trên hết, phải văn hoá.

Trong nửa thế kỷ qua và trong những năm gần đây, giữa những lĩnh vực văn học và nghệ thuật khác, kiến trúc là ngành mà phê bình non yếu hơn cả. Có những lý do chính sau:

- Kiến trúc còn nằm gần như trong địa hạt của lĩnh vực Xây dựng, nó chưa biểu lộ rõ những đặc thù cơ bản của chính mình như là một nền nghệ thuật doanh nghiệp không gian và thiết kế cái đẹp trong cuộc sống, một nền nghệ thuật đứng hẳn trong phường hội và vì thế mang tính phường hội hơn cả.

- Kiến trúc vẫn chưa bước ra khỏi mô hình quản lý và tư duy bao cấp, nó tiếp diễn Dị chi phối bởi đầu cơ trong khoảng Nhà nước, điều hành bởi Nhà nước và những hệ luỵ từ đó.
- Kiến trúc sư làm cho việc theo đơn đặt hàng của nhà đầu tư, trong những mối quan hệ phức tạp về kinh tế và lợi quyền, vấn đề không thể không hạn chế giễu những hoạt động phê bình và sự bảo đảm tính vô tư của nó.

- Lý luận kiến trúc tạo ra chậm chạp và yếu cùng với sự chưa hình thành hàng ngũ những nhà lý luận - phê bình giỏi hoặc nắm vững bài bạn dạng phê bình.
- Phê bình chưa được nhận thức vừa đủ và chính xác, thiên về chỉ trích, quy kết hoặc phê phán không khác gì lắm những gì diễn ra ở các cuộc họp nội bộ lâu nay, dẫn đến những sự tránh né hoặc dị ứng phê bình.

Phê bình kiến trúc trong những năm qua hiện diện ở những diễn đài và những ấn phẩm sau:

- Các hội nghị tổng kết hoặc chuyên đề của các tập đoàn quản lý Nhà nước về xây đắp.
- Ở các hội thảo, các sinh hoạt kỹ thuật - nghề nghiệp của các trường đại học, các hội chuyên ngành.

- Ở các tạp chí chuyên ngành định kỳ.

- Ở các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ kiến trúc.

- Ở một số sách chuyên khảo hoặc tập hợp các bài viết.

- Ở các công cụ tin tức công chúng.

Các văn phiên bản, văn kiện về ngành nghề xây dựng và kiến trúc được trình bày ở các hội nghị hoặc lên tiếng đa dạng bởi các công ty quản lý Nhà nước, do thuộc tính của chính mình, chẳng thể thi hành vai trò phê bình kiến trúc, mà chỉ có kĩ năng đưa ra những kiếm được xét hoặc xác định phương hướng bình thường.

Các sinh hoạt nghề nghiệp, dù có chủ định bàn về kiến trúc, cũng ít khi đi sâu và đi thẳng vào mổ xẻ vật phẩm kiến trúc, do những mặc cảm hoặc lánh né phê bình, do sự chưa định hình tiếng nói phê bình - đối thoại ở các diễn đài học thuật tương tự.
Nhân tố đáng quan ngại hơn, ngay các luận án và luận văn công nghệ hiện giờ hầu như không đếm xỉa đến việc vận dụng các khí cụ tác nghiệp trong phê bình, như luận cứ hoá hoặc phân tách để soi rọi và để ý các cục diện của yếu tố. Các nội dung cần được mổ xẻ lại được trình bày không khác gì những bài báo hoặc các báo cáo bỏ ra cho hội nghị. Các tác giả những luận án kỹ thuật chưa nắm vững vẻ ngoài phân tích và phê bình, họ tránh né, phê bình để có được sự xuôi thuận.
Các bài viết, các phát biểu trên dụng cụ thông tin mọi người thường mang thuộc tính chính luận hơn là những sự giới thiệu chính quan điểm trong khoảng những cơ sở vật chất khoa học. Nhiều lúc chúng lại biểu lộ sự sắc nhọn của hàm răng và cái lưỡi, đều đem lại những hiệu ứng tức thì, song chưa hẳn đã góp phần xây đắp một văn hoá phê bình.
Có vẻ như giới tạp chí và dư luận can thiệp phổ thông hơn tham gia kiến trúc hơn là giới kiến trúc. Giới kiến trúc rượt đuổi theo dư luận.

Phê bình, phê phán là thuộc tính của những nền văn hoá duy lý Phương Tây. Người vn chúng ta có vẻ như ngược lại. Ý thức mái nhà chủ nghĩa, lề thói dĩ hoà vi quý làm cho các hoạt động học thuật dạng phê bình không thể đi lên được, nếu như có thường mang tính chế độ.

Đối với giới sáng tác kiến trúc, phê bình kiến trúc nên nắm bắt là một cơ chế đối thoại trong sạch tác. Một cuộc hội thoại phải hoàn toàn tạo dựng, nối kết tác giả với nhà phê bình, và sau nữa, nối kết các tác giả với dư luận phường hội. Phê bình chẳng thể là nhũng cuộc độc thoại. Độc thoại của chủ thể sáng tạo co cụm và bịt tai bịt mắt. song song cũng không thể là độc thoại của nhà phê bình, nhập vai trò kẻ phán quyết đơn phương, không có phúc đáp trong khoảng người sáng tạo.

Phê bình một cách văn hoá và văn hoá phê bình trong văn chương - nghệ thuật nói phổ biến và trong kiến trúc nói riêng, về bản chất, phải từ sự đến với công trình của nhà phê bình, đầu tiên với tư cách là người hưởng thụ, tiếp theo là người nỗ lực xâm nhập để hiểu, rồi cố gắng giảng nghĩa cho người khác hiểu thật đủ và thật công bình thành quả, cuối cùng mới tính đến chuyện áp đặt cái thước đo của chính mình vào cơ thể công trình. Cái thước đo ấy ra sao và việc áp nó thế nào tham gia công trình, chính là cái chính yếu của văn hoá phê bình. Cái thước đo ấy phải được cấu thành từ sự nắm bắt nhân thức căn bản và thâm thúy ngành nghề nghệ thuật của thành quả, sự nắm vững tình trạng và các xu hướng phát triển của nền nghệ thuật, sự làm chủ thành thạo các khí cụ khảo cứu và nghệ thuật biểu hiện những kết quả cuả giai đoạn công nghệ ấy.
Phê bình có văn hoá, có tính giỏi, phải khác lạ với những thói quen phê bình và phê phán thường ngày, vấn đề mà trong khoảng những cảnh ngộ lịch sử một mực nào đó đã in lằn dấu ấn của nhũng sự moi móc và quy kết. Ngược với tinh thần của phê bình có văn hoá là những sự chê bai, chỉ trích hoặc quy kết tác phẩm, thay vì cho những thao tác mang thực chất phê phán nghệ thuật.

Những hiện tượng thường xảy ra là sự gắn dán hối hả nhãn hiệu mang tính quy kết lên tác phẩm, áp đặt cách thức nhận diện mang tính cơ chế bởi sự so sánh hình tượng nghệ thuật của công trình với những đồ vật trong đời sống,… dẫn đến những dị ứng không chỉ đối với tác giả. Tệ hại hơn, bí quyết làm ấy hướng dư luận vào phương pháp nhìn nhận thiên lệch, biến thành thành kiến dai dẳng

Thực tại kiến trúc những năm qua cho thấy, chúng ta chỉ có thể xây dựng và xúc tiến sản xuất lý luận và phê bình trên cơ sở vật chất thiết lập quỹ kiến thức cơ bản về kiến trúc, rèn rũa hiệ tượng luận kỹ thuật và vận dụng nhuần nhì nó vào các tòa tháp nghiên cứu cơ bản và các tòa tháp phê phán ngành. Đoàn kết tập huấn theo số lượng với đào tạo chuyên sâu, gây dựng những người làm cho kỹ thuật theo ý thức chưng học, có tinh thần bổn phận cao trước phường hội, chiếm hữu cách tư duy và tác nghiệp của nhà chuyên môn sâu. Song cùng, chúng ta cần mở mang, ở chừng mực có thể, mọi cuộc đối thoại, mọi sự cọ sát về nghề nghiệp để xúc tiến và tinh lọc dòng chảy của nghệ thuật kiến trúc. Có vậy, lý luận và phê bình mới đuổi kịp và đi trước cuộc sống, mới tham gia tham gia việc tạo dựng những trụ móng cơ bản cho công cuộc sản xuất.
Trong những năm qua, lý luận và phê bình kiến trúc phát triển chưa tương ứng với sự sản xuất mạnh bạo của nền kiến trúc, còn nền kiến trúc chưa tương ứng với sự phát hành của nước nhà. chậm tiến độ là một trong những cội nguồn của sự chưa xây dựng thương hiệu những tư tưởng lớn của kiến trúc hiện đại vietnam, có kĩ năng xúc tiến và xác định phương hướng thông minh kiến trúc, lý giải sự mất xác định phương hướng nào đó trên bước tuyến phố tiến triển của kiến trúc, với 2 bộc lộ nổi bật là sự hưng thịnh hành chủ nghĩa cách thức lan tràn và sự thiếu bứt phá trong trắng tác kiến trúc. Giới kiến trúc sư vn cần kiếm được rõ trách nhiệm phố hội của chính mình trong sự tạo ra nền lý luận và phê bình ngang tầm với các đòi hỏi và thách thức của thời đại.

GS.TS.KTS Hoàng Đạo Kính/TCKTVN


Xem tại: máy bơm công nghiệp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét